Skip to main content

Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội

Xã Đồng Giáp là một xã vùng cao của huyện Văn Quan, cách trung tâm huyện khoảng 28km, nằm ngay giáp với thành phố Lạng Sơn theo trục đường huyện lộ 59C, có tổng diện tích tự nhiên là 1.850,28 ha, có giới hạn toạ độ địa lý:

Phía Đông  tiếp giáp với Thành phố Lạng Sơn.

Phía Nam giáp với xã Xuân Long thuộc huyện Cao Lộc.

Phía Tây giáp với xã  Khánh Khê và xã Tràng Các - huyện Văn Quan.

Phía Bắc tiếp  giáp với xã Song Giáp - huyện Cao Lộc.

         2. Địa hình, địa mạo

Địa hình xã Đồng Giáp mang tính chất chung của địa hình vùng núi, địa hình núi cao dần từ Đông sang Tây. Khu vực dân cư tập trung và khu vực đất sản xuất nông nghiệp địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc thường dưới tập trung ở các khu vực ven các con suối. Xã Đồng Giáp có các con suối lớn bắt nguồn từ phía Đông- Bắc, đây là nguồn nước chính phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của nhân dân trong xã.

3. Khí hậu

Khí hậu Văn Quan chịu ảnh hưởng chung của khí hậu miền Bắc, là khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nhưng mang những nét độc đáo, riêng biệt. Là huyện có mùa đông lạnh và khô, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của gió mùa Đông Bắc. Số liệu theo dõi liên tục về khí hậu trong nhiều năm ở huyện, thu được kết quả trung bình như sau:

- Nhiệt độ không khí bình quân năm                       : 21,20C

- Nhiệt độ không khí trung bình tháng cao nhất      : 28,40C (tháng 6)

- Nhiệt độ không khí trung bình tháng thấp nhất     : 150C (tháng 1)

- Lượng mưa trung bình năm                                  : 1500 mm

- Độ ẩm không khí trung bình năm                         : 82,5%

- Độ ẩm không khí trung bình tháng thấp nhất        : 77%

- Độ ẩm không khí trung bình tháng cao nhất         : 86%

- Chỉ số khô hạn các tháng mùa khô                        : 1,4÷1,6

- Biên độ nhiệt ngày đêm                                         : 7÷80C

- Lượng mây trung bình năm khoảng                      : 7,5/10 bầu trời

- Số giờ nắng trung bình khoảng                             : 1600 giờ/năm

Huyện Văn Quan có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng núi. Hàng năm chia thành hai mùa rõ rệt. Mùa nóng, ẩm bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10. Mùa khô lạnh, ít mưa, khô hanh và rét kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.

Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9. Trong các tháng mùa mưa, lượng mưa bình quân tháng là 212 mm. Số ngày mưa trong năm là 134 ngày. từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau ít mưa, lượng mưa bình quân tháng ở những tháng này là 44,5 mm.

Lượng bốc hơi bình quân năm là 811 mm. Số giờ nắng trung bình năm là 1466 giờ. Số ngày có sương muối trong năm không đáng kể, chỉ 2 đến 3 ngày.

Là huyện miền núi, chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Đông Bắc, có sự biến đổi nhiệt khá lớn, đặc biệt có thời gian khô đúng vào thời kỳ các loại cây dài ngày ra hoa, đậu quả, biên độ ngày đêm chênh lệch lớn,... đó là những yếu tố thuận lợi cho sự thụ phấn, đậu quả và phẩm chất ngon của các loại cây dài ngày.

Hướng gió thịnh hành là Đông Bắc và Tây nam, huyện ít bị ảnh hưởng của bão nên thích hợp cho phát triển cây dài ngày, đặc biệt là cây ăn quả. Với nền nhiệt độ và số giờ nắng trung bình trong năm như trên cũng rất thuận lợi cho việc bố trí mùa vụ, bố trí cơ cấu các loại cây trồng, là điều kiện để phát triển đa dạng, phong phú các loại cây trồng ôn đới, á nhiệt đới. Thảm thực vật của Văn Quan cũng tương đối phong phú, đa dạng có nhiều chủng đặc dụng quý hiếm.

Tuy nhiên khí hậu Văn Quan cũng tương đối khắc nghiệt, do nằm trong lòng máng trũng đón gió mùa đông bắc nên mùa đông thường lạnh và khô, ảnh hưởng khá lớn đến sự sinh trưởng của các loại cây trồng.

         4. Tài nguyên nước

Văn Quan có hệ thống sông suối khá dày đặc và phân bố khá đồng đều, đặc biệt có sông Kỳ Cùng chảy qua các xã: Song Giang, Khánh Khê, Văn An,… có chiều dài khoảng 35km; sông Môpja chảy qua Lương Năng, Tú Xuyên, Thị trấn Văn Quan, xã Vĩnh Lại,… với chiều dài khoảng 50km, ngoài ra còn có một số con suối khác chảy qua các xã trong huyện. Mật độ sông suối của Văn Quan khoảng 0,6÷1,2km/km2.

Lợi dụng địa hình bát úp, các hợp thủy và nhiều thung lũng nhỏ, huyện đã tiến hành xây dựng hệ thống hồ đập, dự trữ nước phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất Nông nghiệp như: Đập Bản Quyền, Hồ Bản Nầng, hồ Suối Mơ,… là nguồn nước chủ yếu cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, còn có một số hồ đập chứa nước nhỏ được xây dựng trên các khe suối. Do có hệ thống sông suối, hồ đập phân bố khá đồng đều nên thuận lợi cho việc phát triển hệ thống thủy lợi.

Đánh giá nguồn nước mặt: Theo số liệu điều tra, đánh giá hiện trạng khai thác và sử dụng tài nguyên nước mặt trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, về chất lượng nguồn nước: Đến nay, qua kết quả phân tích, chất lượng nguồn nước mặt, nước ngầm huyện Văn Quan tỉnh Lạng Sơn còn tương đối tốt và đều nằm trong giới hạn cho phép theo quy định của TCVN 5942-1995.

 Đánh giá nguồn nước ngầm: Hiện nay chưa có tài liệu điều tra cụ thể về nước ngầm tại huyện Văn Quan nói riêng và tỉnh Lạng Sơn nói chung. Tuy nhiên huyện Văn Quan có nguồn nước ngầm và nước mặt nhìn chung khá phong phú.

Trong mấy năm gần đây, những biến đổi bất thường của thời tiết khí hậu theo mùa và theo vùng, cộng với nạn khai phá rừng bừa bãi ảnh hưởng tới môi trường và làm giảm trữ lượng nguồn nước ngầm,... Vì vậy, nguồn nước sạch phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân cần được chú trọng đầu tư.

5. Tài nguyên đất

Trên địa bàn huyện có các nhóm đất chính sau:

- Nhóm đất Feralit: Chiếm khoảng 93,47% tổng diện tích đất tự nhiên, gồm các loại sau:

+ Đất vàng nhạt phát triển trên đá cát (Fq): Chiếm khoảng 61,54% đất đai hiện có. Thành phần cơ giới thịt nhẹ đến trung bình, có tầng dày 50 – 120 cm. Hàm lượng mùn, đạm nghèo đến trung bình tùy theo mức độ khai thác. Hàm lượng lân và kali tổng số trung bình, lân và kali dễ tiêu thấp, sắt nhôm di động trung bình; catinon kiềm thấp, đất có phản ứng chua. Được sử dụng trồng rừng, hồi và cây ăn quả.

+ Đất đỏ vàng trên đá sét (Fs): Chiếm 14,24% diện tích đất, phân bố chủ yếu ở xã Trấn Ninh, xã Hòa Bình, xã Tràng Phái. Đất có tầng dày 1 – 1,5 m, hàm lượng mùn, đạm, lân, kali tổng số trung bình đến khá; hàm lượng lân, kali dễ tiêu nghèo, ma giê thấp, sắt di động cao; đất có phản ứng chua. Được sử dụng để phát triển cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả.

+ Đất đỏ nâu trên sản phẩm phong hóa đá vôi (Fv): Chiếm 10,15% diện tích đất, được phân bố rải rác ở các xã như xã Khánh Khê, xã Tràng Các, xã Tràng Sơn, xã Bình Phúc, Thị trấn Văn Quan,... Đất có tầng dày 1 – 2 m với thành phần cơ giới chủ yếu là thịt trung bình. Hàm lượng chất hữu cơ khá; lân, kali, đạm tổng số trung bình đến nghèo, hàm lượng kali dễ tiêu khá. Được sử dụng để trồng rừng, trồng hồi và cây ăn quả.

+ Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa (Fl): Chiếm 7,50% diện tích đất đai. Thành phần cơ giới thịt nhẹ và trung bình, độ dày tầng đất từ 10 – 20 cm, đất có phản ứng chua, nghèo lân và kali dễ tiêu. Được sử dụng trồng 1, 2 vụ lúa hay 1 màu 1 lúa tùy theo khả năng tưới của từng vùng.

+ Đất vàng xám trên đá macma axit (Ba): Chiếm 5,70% diện tích đất đai. Đất có màu vàng xám, kết cấu rời rạc, thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến thịt trung bình, độ dày tầng canh tác 10 – 20 cm. Hàm lượng mùn, đạm nghèo; lân, kali để tiêu thấp, đất có phản ứng chua. Sử dụng trồng lúa nhưng năng suất thấp.

- Nhóm đất sản phẩm dốc tụ (D): Chiếm khoảng 0,83% diện tích đất đai, nằm ven theo các khe suối, phân bố ở nhiều xã trong huyện. Thành phần cơ giới nhẹ và trung bình. Hàm lượng mùn, đạm tổng số nghèo; lân, kali tổng số giàu; lân, kali dễ tiêu nghèo, đất có phản ứng chua, độ dày tầng canh tác 15 – 20 cm. Được sử dụng trồng màu, lúa – màu hoặc 2 lúa.

Còn lại là đất sông suối, núi đá.

Nhìn chung các loại đất của huyện có độ phì nhiêu từ trung bình đến khá, có tầng dày đất khá, thuận lợi cho phát triển sản xuất nông – lâm nghiệp, trồng các cây lâu năm (cây ăn quả, chè, hồi,...).

6. Tài nguyên rừng

Diện tích đất rừng của huyện Văn Quan tương đối lớn. Theo số liệu thống kê đất đai tính đến ngày 31/12/2016 thì diện tích đất lâm nghiệp của huyện là 36.761,22 ha, chiếm 67,14% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện. Trong đó bao gồm các loại rừng sau:

- Đất rừng phòng hộ: Diện tích 7.844,57 ha, chiếm 14,33% tổng diện tích, được phân bổ trên địa bàn các xã.

- Đất rừng sản xuất: Diện tích 27.827,43 ha, chiếm 50,82% tổng diện tích, được phân bổ trên địa bàn các xã.

- Đất rừng đặc dụng: Diện tích 1.089,22 ha, chiếm 1,99% tổng diện tích, là phần diện tích rừng đặc dụng trên địa bàn xã Hữu Lễ.

Rừng là nguồn tài nguyên, là thế mạnh của huyện, diện tích đất lâm nghiệp chiếm diện tích chủ yếu trong cơ cấu sử dụng đất toàn huyện. Tổ thành loài chủ yếu ở rừng núi đất là: Sau sau, sơn ta, dẻ, thẩu tấu, thành ngạnh và một số loài cây phụ khác. Tổ thành chủ yếu ở rừng núi đá là: Mạy tèo, sảng, nhung, đinh thối, trai lý, gụ, nghiến nhưng hiện nay số lượng không đáng kể. Các cây rừng nhân tạo chủ yếu là: Bạch đàn, keo, thông,...

Hệ động vật rừng mang tính đặc thù của vùng sinh thái núi đá Đông Bắc, tuy nhiên số lượng đã bị suy giảm. Các loại thú lớn như hổ, gấu không còn thấy xuất hiện nữa. Hiện nay, tổ thành loài chủ yếu là các loại thú nhỏ như: Cầy hương, cầy bay, khỉ, hươu và một số ít lợn rừng.

Thảm thực vật và hệ động vật suy giảm mạnh, đòi hỏi phải có sự quan tâm chăm sóc, tu bổ, biện pháp canh tác bền vững, hướng tới phát triển công nghiệp khai thác, chế biến lâm sản, du lịch sinh thái.

7. Tài nguyên khoáng sản

Trên địa bàn huyện có 2 điểm quặng Barit tại Bản Háu, Nà Chanh (xã Tràng Phái) với trữ lượng khoảng 166.000 tấn. Một số điểm quặng Bôxit tại xã Tràng Phái, xã Tân Đoàn, xã Tri Lễ, xã Tú Xuyên,… Các điểm mỏ đá ốp lát tại xã Tân Đoàn, xã Tràng Phái, Yên Phúc, Văn An,… và các mỏ đá vôi trong huyện là nguồn nguyên liệu có mặt ở nhiều nơi đặc biệt là dọc các tuyến đường Qlộ: 1B; 279; tỉnh lộ 240,… có điệu kiện khai thác thuận lợi là nguyên liệu cung cấp cho sản xuất vật liệu xây dựng.

8. Tài nguyên nhân văn và du lịch

Hiện nay huyện có 24 đơn vị hành chính (1 thị trấn và 23 xã), gồm nhiều dân tộc chung sống như­: Tày, Kinh, Nùng,... với nhiều bản sắc dân tộc.

Trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, HĐND và UBND huyện, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân huyện đã phát huy truyền thống đoàn kết, ý chí tự lực tự cường, khắc phục mọi khó khăn nên đã đạt đ­ược những thành tựu quan trọng về kinh tế, văn hóa và giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội.

Tuy chặng đường phát triển phía tr­ước còn nhiều khó khăn, thách thức như­ng với truyền thống cách mạng, đoàn kết, tranh thủ thời cơ, phát huy những lợi thế có sẵn, Đảng bộ và nhân dân huyện Văn Quan sẽ vững vàng đi lên thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Nông nghiệp nông thôn. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển.

Với lợi thế là vùng có nhiều cảnh quan đẹp (các hang động Krast) và nhiều di tích lịch sử văn hóa (quê hương nhà cách mạng Lương Văn Tri, hồ Bản Nầng,...), khí hậu trong lành, cùng sự phát triển của giao thông, thì việc phát triển du lịch trong những năm tới là một hướng đi của huyện. Với đặc thù thành phần dân tộc đa dạng, phát triển du lịch dựa trên những giá trị nhân văn truyền thống và các phong tục, lễ hội văn hoá của nhân dân sẽ đem lại những nét văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc cho huyện.

 9. Điều kiện kinh tế - xã hội

Thực trạng phát triển kinh tế xã hội

Cơ cấu kinh tế của xã Đồng Giáp đã có những chuyển biến tích cực, Thực hiện nghị định 64/CP, 02/CP, 163/CP với việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng  đất ổn định các loại đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất ở cho các hộ gia đình, đất xây dựng cơ bản cho các tổ chức văn hoá, kinh tế, chính trị xã hội. Người dân đã thực sự yên tâm đầu tư trên diện tích đất được giao cho nên hiệu quả sử dụng  đất được tăng lên. Tuy nhiên hệ số sử dụng  đất chưa được nâng cao, cơ cấu đất đai còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được nhu cầu hiện nay. Bên cạnh đó trình độ dân trí trong xã không được đồng đều, việc tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế nên năng suất, sản lượng cây trồng chưa cao, chưa phát huy được thế mạnh của đất.

Sản phẩm các ngành trồng trọt mới chỉ đáp ứng được nhu cầu lương thực thực phẩm của nhân dân.

 Bên cạnh ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi cũng được phát triển. Chăn nuôi của xã Đồng Giáp chủ yếu là chăn nuôi trâu, bò, lợn, gia cầm. Với hình thức và quy mô hộ gia đình, tận dụng những  sản phẩm dư thừa trong trồng trọt, tận dụng lao động phụ vào những lúc nông nhàn. Ngành chăn nuôi mang tính tự cung, tự cấp, chủ yếu là cung cấp sức kéo, phân bón cho nông nghiệp, cung cấp thực phẩm tại chỗ và một phần nhỏ ra thị trường. Vì vậy trong tương lai cần có những biện pháp khuyến khích phát triển ngành chăn nuôi để tạo ra một cơ cấu hàng hoá hợp lý trong nông nghiệp mang tính hàng hoá.

Trong lâm nghiệp công tác chăm sóc, khoanh nuôi bảo bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng, việc trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc được đảm bảo thường xuyên

Dịch vụ: Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, ngành dịch vụ thương mại xã Đồng Giáp đã và đang khởi sắc theo chiều hướng tốt xong quy mô còn nhỏ hẹp. Trong những năm tới đây cần có các chính sách kêu gọi đầu tư, tạo điều kiện khuyến khích các tập thể, cá nhân trong huyện cũng như ngoài huyện, tỉnh đẩy mạnh ngành thương mại, dịch vụ, hình thành các cụm tiểu thủ công nghiệp, coi đây là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của xã.

About